Phan Thanh Giản và nỗi oan thấu trời xanh

Đầu năm 1868, vua Tự Đức sai Hiệp biện đại học sĩ Trần Tiễn Thành và Bang biện huyện Thành Hóa Nguyễn Văn Tường mang theo một dự thảo đã được triều đình soạn sẵn để theo đó mà bàn thảo vào Gia Định thương thuyết hiệp ước mới, nhưng không được toàn quyền quyết định. Việc điều đình không thành, Hiệp biện họ Trần bị vua giáng xuống làm tả Tham tri bộ Công.


Phan Thanh Giản (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867)

Phaп Thaпh Giảп (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự Tĩnh Bá, Đạm Như (淡如), hiệu Ước Phu, Lương Khê; là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã đàm phán và chấp thuận cắt 3 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp.

Thân thế và sự nghiệp

Phan Thanh Giản xuất thân trong một gia đình nghèo khổ. Tương truyền, tổ phụ là Phan Thanh Tập, hiệu Ngẫu Cừ, sống thời nhà Minh. Sau khi nhà Minh bị nhà Mãn Thanh tiêu diệt, Phan Thanh Tập di cư sang phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định (Việt Nam). Nơi đây ông cưới vợ tên Huỳnh Thị Học, sinh được một người con trai tên là Phan Thanh Ngạn tục gọi là Xán.

Năm 1771, gia đình ông Ngạn vào Nam tạm cư ở Thang Trông, thuộc tỉnh Định Tường. Sau đó lại dời về Mân Thít, trấn Vĩnh Thanh (thuộc Vĩnh Long ngày nay), rồi lại dời về ở huyện Bảo An, phủ Hoằng Trị, cũng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Cuối cùng ông Ngạn đến lập nghiệp tại thôn An Hòa, làng Tân Thạnh, huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thạnh (nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).

Ở đây, ông cưới người vợ tên Lâm Thị Bút. Ngày 11 tháng 11 năm 1796, bà hạ sinh được một trai tên Phaп Thaпh Giảп. Năm Phan Thanh Giản lên 7 (1802), thì mẹ qua đời, cha cưới người vợ nữa tên Trần Thị Dưỡng để có người chăm sóc con. Bà mẹ kế này rất thương yêu con chồng. Đến tuổi đi học, ông theo học với nhà sư Nguyễn Văn Noa ở chùa làng Phú Ngãi.

Năm 1815, vì sự cáo gian của kẻ có thù riêng với gia đình , cha của ông lúc ấy đang làm Thủ hạp (một viên chức nhỏ), phải ngồi tù.

Nóng lòng vì cha bị hàm oan, ông đệ đơn lên Hiệp trấn Lương (không rõ họ) ở Vĩnh Long xin được thay cha vào tù. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo, viên quan này đã cho ông ở gần nơi cha bị gjam çầm, để vừa trau dồi kinh sử, vừa có cơ hội thăm cha mỗi ngày.

Sau khi cha được mãn tù, nghe lời Hiệp trấn Lương, Phaп Thaпh Giảп ở lại Vĩnh Long để tiếp tục học và chờ đợi khoa thi. Tại đây, ông gặp một người đàn bà nhân hậu tên Ân. Bà này đã giúp ông tiền và cơm, áo…để tiếp tục theo việc đèn sách.

Phan Thanh Giản qua Pháp đòi lại… ba tỉnh miền tây

Trong chuyến đi Gia Định, Tùy biện Nguyễn Văn Tường có đến gặp Lãnh sự Y Pha Nho (Tây Ban Nha – TN) và dò xét tình ý xem họ có thể giúp gì được chăng. Họ Nguyễn cũng có tiếp xúc với luật sư Blancsubé để xét việc kiện hành động vi ước bất hợp pháp, chiếm miền Tây của Đề đốc de La Grandière, và việc cho phái đoàn mang thổ vật tặng Quốc trưởng các cường quốc để nới rộng bang giao.


Phaп.Thaпh.Giảп

Thực lục không đề cập đến nội dung cuộc thương thuyết này, nhưng căn cứ vào tài liệu từ phía Pháp, sử gia Fourniau cho biết phía Việt phản đối việc Pháp cưỡng chiếm ba tỉnh miền Tây, và đòi Pháp trả lại hai tỉnh Gia Định và Biên Hòa. Về bốn tỉnh còn lại, Pháp có quyền định phần chia thuế má, nhưng sẽ do các quan Việt cai trị.

VN phải bán ba tỉnh miền Tây cho Pháp với giá là 1.600.000 đồng bạc, sẽ mở mọi hải cảng dọc bờ biển cho thông thương và Pháp sẽ trợ giúp trong việc chống giặc cướp biển. Mặc dầu không ký được điều ước mới như ý vua muốn, phái đoàn đã thực hiện được nhiều công tác khá ích lợi.


Phan Thanh Giản

Về tới H.Thành Hóa (Quảng Trị), Bang biện Tường với Hiệp biện Thành trở vào Huế dâng sớ chứng minh rằng việc gởi phái đoàn sang Pháp không những vô ích mà còn có hại, vì lâu rồi, các chủ súy Pháp từ Bonard về sau đều muốn lấy cả 6 tỉnh Nam kỳ, dù ta có tỏ ra thành tâm mấy đi nữa trong việc thi hành Hòa ước Nhâm Tuất, và đề nghị nên nỗ toàn lực trong việc phòng giữ phần đất còn lại, chuẩn bị để lâm thời tấn công lấy lại phần đất đã mất khi thời cơ cho phép. Đồng thời, nên gởi một quốc thư cho quốc trưởng Pháp và một thư của Thương bạc viện cho tướng Pháp ở Gia Định nói rõ những điều kiện trả lại Gja.Định, Biên Hòa và miễn tiền bồi thường của hòa ước 1862, xem họ trả lời ra sao. Thư, ngày 30.10.1869, của vua Tự Đức gởi Hoàng đế Napoléon III có đề nghị những điều này (được lưu trữ tại văn khố Bộ Ngoại giao Pháp). Trước đó hai tuần, Tùy biện Tường cũng đề nghị lên vua sách lược chống Pháp “hòa để thủ, thủ để mưu chiến”.

Nếu Hoàng Diệu đã luôn luôn được đề cao, thì Phaп Thaпh Giảп đã có lần bị kết án, bị hiểu lầm, bị bỏ quên. Sau khi ba tỉnh miền Tây thất thủ, Phan Thanh Giản, tuy đã cʜết rồi vẫn bị bóc lột chức tước, đục tên khỏi bia tiến sĩ ở Văn Thánh. Mãi về sau Đồng Khánh mới phục hồi cho ông phẩm chức, và chúng ta mới có cái hình ảnh của một vị quan hiền hậu, thức thời và bình thản trước cái cʜ.ết.

Nhưng gần đây, các nhà sử học miền Bắc, nhân phong trào đánh giá lại một số nhân vật lịch sử, đã nêu lên trường hợp Phaп Thaпh Giảп. Trong ý thức tranh đấu của một nền văn nghệ chỉ huy, lẽ dĩ nhiên là chỉ có những người chống Pháp cho đến cùng như Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân mới là những người làm đầy đủ nhiệm vụ lịch sử đối với dân tộc. Còn những kẻ chủ hòa, những kẻ muốn thỏa hiệp với thực dân – dầu muốn thỏa hiệp vì chiến thuật – là những người hèn nhát.

Phan.Thanh.Giản, dưới con mắt của các nhà sử học có nhận định hướng ấy, là một kẻ phong kiến, tuy có giác ngô hơn các kẻ phong kiến khác, nhưng bạc nhược, hèn nhát, coi trọng quyền lợi của giai cấp mình hơn quyền lợi của đất nước. Cái tội lớn nhất của ông vẫn là cái tội thỏa hiệp với giặc, nhưng bộ cho giặc, thua trận trước lúc giao trận.

Một trăm năm rồi, ba tỉnh miền Tây thất thủ và ông từ.trần. Tất cả đã thuộc về dĩ vãng, kể cả chế độ thực dân của người Pháp. Chúng ta có thể có đủ bình tĩnh để nhìn sự việc một cách khách quan và đặt một vài nghi vấn gọi là để góp phần vào việc tìm hiểu một thời đại khá tiêu biểu cho lịch sử mất nước của dân ta.

Phạm Phú Thứ khóc Phan Thanh Giản

Những người ngoài cuộc thời đó và các sử gia quan sát viên ngày nay nói chung đều đã không cảm thông được những thủ đoạn quyền biến của vua quan triều Tự Đức. May thay, một người trong cuộc thời đó đã hé lộ cho thấy phần nào mưu lược của vua và triều thần trong vụ này. Đó là đại thần Phạm Phú Thứ, người đã từng hợp tác với sứ thần trong sự hình thành hòa ước 5.6.1862, nhất là trong giai đoạn phê chuẩn và trao đổi hiệp ước, đã cùng đi Pháp với phái đoàn Phaп Thaпh Giảп với tư cách là phó sứ, và thường được vua cử làm Khâm sai để điều đình với các đại diện Pháp từ Gja.Định ra kinh để đòi vua nhượng thêm ba tỉnh Nam kỳ còn lại.


Phạm Phú Thứ

Lần ký Hiệp ước Nhâm Tuất, Phan tiên sinh đã cứu nước ta khỏi cơn khủng hoảng, hầu cho Nguyễn Tri Phương có thể đem quân ra Bắc dẹp loạn. Ký xong, ông nhận vào làm Tổng đốc Vĩnh Long để bảo đảm việc thi hành hiệp ước cho trôi chảy. Ông còn đi sứ sang Pháp mang thư của vua Tự Đức viết cho Pháp hoàng xin chuộc 3 tỉnh miền Tây đã lỡ nhượng và sau đó ký được một hiệp ước mới, thuận lợi hơn… nhưng cuối cùng vẫn không thành.

Tình hình ngoài Bắc tạm yên thì trong Nam, Pháp lại sinh sự muốn chiếm luôn các tỉnh còn lại của Nam kỳ. Rồi cũng chính ông vào Nam để hòa hoãn với Pháp để bảo toàn miền Tây này. Bao nhiêu công tác chính trị và ngoại giao mà sử gia thường gọi là “chủ hòa” đều một vai ông gánh vác, làm cho ông bị biết bao nhiêu là điều tiếng: bán nước, đầu hàng, rước đạo, Việt gian…

Trước những hiểu lầm đáng tiếc, Phan tiên sinh đành ngậm đắng nuốt cay, không biện bạch cho mình để khỏi tiết lộ bí mật quốc gia, làm hại uy tín của vua và chính nghĩa của chế độ. Tiên sinh đã lấy cái cʜết để bảo toàn khí tjết của mình, chứng minh cho lòng thành đối với vua, với nước…

Trong một bài điếu hay bi ca có giá trị lịch sử hết sức lớn lao, được làm vào mùa thu năm 1867 để tưởng nhớ đại thần họ Phan, họ Phạm Thượng thư bộ Hộ sung Đại thần Cơ mật viện mô tả: Sau 5 năm chống đánh với quân Pháp và mất các tỉnh miền Đông, vô số người ra đi và tài sản bị tiêuhủy, nước nhà hầu như kiệtquệ, cuộc nội loạn ở Bắc kỳ lại nổi lên, sao chổi hiện ra cùng với thiên tai, hạn hán, lụt lội xảy ra liên hồi…, với tình thế và tương quan lực lượng như vậy, ngài làm sao mà lấy lại ba tỉnh đã mất và tránh khỏi phải trả tiền bồi phí: “Năm trước, khi hòa ước được kết thúc, ngài đã chấp nhận vai trò phạm nhân hầu đem lại đôi chút thảnh thơi cho một giai đoạn nguy biến”. Nay ngài đã cʜết ngay trên lãnh thổ ba tỉnh miền Tây mà ngài đã có trách nhiệm chống giữ. “Sự cắt nhượng lãnh thổ, chung cuộc, cần phải do nhà vua quyết định. Ai ai cũng cho rằng ngài đã làm sai trái… (nhưng) có bao nhiêu người biết được tình trạng thực sự của nước nhà?”.

Lẽ dĩ nhiên, lý do bí mật đã không cho phép đại thần Phạm Phú Thứ trình bày rõ hơn nữa uẩn khúc của bậc đàn anh khả kính họ Phan.
(Trích sách Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của nhà Nguyễn, của Giáo sư Nguyễn Quốc Trị do Khai Tâm và NXB Tổng hợp TP.HCM ấn hành)

Duy Phan – 14/10/2020

Bài viết có tham khảo từ:
Phan Thanh Giản và nỗi oan thấu trời xanh
Phan Thanh Giản
Phan Thanh Giản với việc mất ba tỉnh miền Tây
‘Giải mật’ những tồn nghi triều Nguyễn: Nỗi oan thấu trời của Phan Thanh Giản

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *