Sự Ra Đời Của Văn Miếu Quốc Tử Giám: nơi chỉ có con cháu hoàng tộc mới được bước vào

Văn Miếu – Qυốc Ƭử Gɨám là một quần thể kiến trúc di tích lịch sử văn hóa hàng đầu của Thủ đô và cả nước, được xây dựng năm Canh Tuất, tháng Tám, niên hiệu Thần Võ thứ hai (9-1970) đời vua Lý Thánh Tông, trên hòn đảo lớn của Đại hồ phía Nam Hoàng thành, thuộc đất của hai phường Cổ Giám và Văn Chương. Nay nằm trên phố Qυốc Ƭử Gɨám, quận Đống Đa, Hà Nội.

Năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho xây nhà Qυốc Ƭử Gɨám – trường học cao cấp đầu tiên của nước ta, nằm sau Văn Miếu. Khi mới xây dựng, trường chỉ dành riêng cho các hoàng tử con vua, hoàng thân, con các đại thần, quý tộc (nên gọi tên là Quốc Tử).

Mười năm sau (1806) mở khoa thi thứ hai chọn người đỗ cao vào Hàn Lâm viện. Mạc Hiển Tích đã vinh dự được bổ nhiệm làm Hàn Lâm học sĩ đầu tiên.

Đến đời Lý Anh Tông (1138-1175), Tô Hiến Thành làm phụ chính, năm 1156, cải cách mở rộng việc học, Văп Mɨếu chỉ còn thờ một mình Khổng Tử. Sang triều Trần, khoa nho học đầu tiên mở năm 1232, đại khoa gọi là thi Thái học sinh, người đỗ lấy làm tam giáp, sau đặt tam khôi: trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Qυốc Ƭử Gɨám được mở rộng, tuyển cả con thường dân học giỏi (nên gọi là nhà Quốc Học).

Sử gia Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn khoa Đinh Mùi (1247), Mạc Đĩnh Chi đỗ trạng nguyên khoa Giáp Dần (1304) dưới triều Trần. Đời Trần Nghệ Tông (1370-1372) nhà nho Chu Văn An từng làm Tư nghiệp Qυốc Ƭử Gɨám dưới triều Trần Minh Tông (1314-1329) là người Nam đầu tiên được đưa vào thờ ở Văn Miếu cùng với Khổng Tử.

Vào đời Lê Thánh Tông (1460-1497), việc giáo dục, thi cử được coi là thịnh đạt nhất. Nhà vua lại có sáng kiến khắc bia lưu danh các tiến sĩ đặt ở Văn Miếu – Qυốc Ƭử Gɨám. Đợt dựng bia đầu tiên vào năm 1484 niên hiệu Hồng Đức thứ 15. Đợt này tạc 10 bia ghi tên tiến sĩ các khoa trước mở đầu bằng khoa Nhâm Tuất – Đại Bảo thứ 3 (1442) thời Lê. Năm 1785, Qυốc Ƭử Gɨám được đổi thành nhà Thái Học. Nhân dân quen gọi là Trường Giám và nơi này đã thành tên chung của di chỉ văn hóa – giáo dục lớn nhất nước ta thời phong kiến này.

Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Qυốc Ƭử Gɨám nằm trên diện tích rộng 54331m² bao gồm: Hồ Văn, vườn Giám và Nội tự. Khu nội tự tại đây tôn nghiêm, được ngăn cách với vườn Giám và bên ngoài bằng tường gạch vồ, được chia làm 5 lớp không gian khác nhau, mỗi lớp được giới hạn bởi các tường gạch, có các cửa thông nhau: một cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên với các kiến trúc chủ thể là: cổng Văп Mɨếu môn, cổng Đại Trung môn, Khuê Văn Các, cổng Đại Thành môn, khu điện thờ, cổng Thái Học và kết thúc là khu Thái Học.

Hồ Văn

Phía nam, trước mặt Văn Miếu là hồ Minh Đường hay Văn hồ, dân gian thường gọi là hồ Giám.

Năm 1863, trong dịp sửa nhà bia Văп Mɨếu, Văn Hồ đã được một lần tu sửa. Sự việc này còn ghi lại rõ ràng trên tấm bia đá dựng ở gò giữa hồ: Trước miếu có hồ lớn, trong hồ có gò Kim Châu, vào khoảng niên hiệu Cảnh Trị (1668-1671), Tham tụng họ Phạm(Phạm Công Trứ) làm 10 bài thơ vịnh Phán thủy để ghi lại cảnh đẹp…

Mùa thu năm Quý Hợi niên hiệu Tự Đức (1863) tôi cùng Cao đài Đặng Lương Phủ (Đặng Tá) dựng đình bia Tiến sĩ và sửa sang khu hồ… Mùa thu năm Ất Sửu(1865), Đặng sứ quân lại xuất tiền nhà xây một đình trên gò Kim Châu. Đình làm xong gọi là Văn hồ đình…. .

Văn Miếu Môn

Phía trước Văп Mɨếu môn là tứ trụ (nghi môn) và hai tấm bia Hạ mã (下馬)hai bên đó là mốc ranh giới chiều ngang phía trước mặt cổng.

Xưa kia dù công hầu hay khanh tướng, dù võng lọng hay ngựa xe hễ đi qua Văn Miếu đều phải xuống đi bộ ít nhất từ tấm bia Hạ mã bên này sang tới tấm bia Hạ mã bên kia mới lại được lên xe lên ngựa.

Đại Trung môn

Bắt đầu với cổng chính Văп Mɨếu môn vào không gian thứ nhất gọi là khu Nhập đạo, theo đường lát gạch thẳng tới cổng thứ hai là Đại Trung môn. Ngang hàng với Đại Trung môn bên trái có Thành Đức môn, bên phải có Đạt Tài môn.

Xung quanh khu vực này trồng nhiều cây to tỏa bóng mát gần kín khắp mặt bằng. Hai chiếc hồ chữ nhật nhỏ nằm dài sát theo chiều dọc của tường vây dọc bên ngoài. Cây xanh, bóng mát, nước trong, cảnh trí tạo cảm giác tĩnh mịch, thanh nhã của nơi “văn vật sở đô”.

Kiến trúc Đại Trung môn được làm theo kiểu 3 gian, xây trên nền gạch cao, có mái lợp ngói mũi hài, có hai hàng cột hiên trước và sau, ở giữa là hàng cột chống nóc. Gian giữa cổng treo một tấm biển nhỏ đề 3 chữ “Đại Trung môn”. Từ hai cửa Đạt Tài môn và Thành Đức môn ở hai bên cửa Đại Trung môn, hai con đường lát gạch khác nhỏ hơn chạy thẳng song song với con đường trục giữa vươn thẳng tới cổng thứ 3.

Khuê Văn Các

Khuê Văn Các (nghĩa là “gác vẻ đẹp của sao Khuê”) là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm 1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo.

Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao.

Giếng Thiên Quang, bia Tiến sĩ

Nhưng có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng.

Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá.

Đại Thành Môn, khu điện thờ

Qua cửa Đại Thành là vào không gian thứ ba, khu vực chính của di tích này. Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là một kiến trúc 3 gian với hai hàng cột hiên trước sau và một hàng cột giữa. Chính giữa, trên giáp nóc có treo một bức hoành khắc 3 chữ 大成門 (Đại thành môn) theo chiều ngang, đọc từ phải sang trái.

Qυốc Ƭử Gɨám – nhà Thái Học

Khu thứ năm ở phía sau hậu cung là Trường Giám, tức nhà Thái Học. Sách “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn còn ghi khá cụ thể về quy mô công trình kiến trúc này ở thời Lê: “nhà Thái Học ba gian có tường ngang, lợp ngói đồng…, nhà Minh Luân ba gian hai trái…

Nhà giảng dạy ở phía Đông và phía Tây hai dãy đều 14 gian… phòng học của học sinh tam xá ở phía Đông và phía Tây đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian dành cho hai người ở…” lại còn “kho để văn khắc sách 4 gian, nhà bếp hai gian…”

Duy Phan – 26/10/2020

Bài viết được tham khảo:
VĂN MIẾU –Qυốc Ƭử Gɨám
Hồ Văn
Văn Miếu Môn
Khuê Văn Các
Giếng Thiên Quang, bia Tiến sĩ
Đại Thành Môn, khu điện thờ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *